Nhiều loại khoáng sản của Việt Nam sẽ cạn kiệt trong tương lai gần

Thảo luận trong 'Trong nước' bắt đầu bởi Admin, 3/12/15.

  1. Admin
    Offline

    Admin Administrator Thành viên BQT

    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
    Giới tính:
    Nam
    Đây là cảnh báo được các chuyên gia đưa ra tại Hội thảo “Quản trị ngành công nghiệp khai thác ở Việt Nam: Thách thức và nhu cầu cải cách”, được Liên minh Khoáng sản, Trung tâm con Người và Thiên nhiên và Trung tâm Phát triển và hội nhập tổ chức ngày 3/12, tại Hà Nội.

    Thất thu ngân sách cao

    Ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm con Người và Thiên nhiên cho biết: Hơn 2 thập kỷ qua, ngành khoáng sản của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng về mặt quy mô. Theo đánh giá quốc tế, Việt Nam đứng thứ 7 về khai thác dầu thô ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, đóng góp 2,3% tổng sản lượng thiếc và 1.8% tổng sản lượng xi măng thế giới vào năm 2012.

    Còn theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam đã khai thác 42,6 triệu tấn than, 3 triệu tấn quặng sắt, 3 triệu tấn Appatite, 193 ngàn tấn Mangan và nhiều loại khoáng sản khác với sản lượng lớn vào năm 2013. Với quy mô khai thác như trên, nhiều loại khoáng sản của Việt Nam sẽ cạn kiệt trong tương lai gần. Theo tính toán của Tổng Hội Địa chất, số năm khai thác còn lại của dầu khí là 56 năm, barit là 21 năm, thiếc là 19 năm, chì – kẽm là 17 năm và vàng là 21 năm.

    Tuy được khai thác với quy mô lớn, đóng góp ngân sách từ ngành khoáng sản lại rất hạn chế. Theo tính toán từ số liệu thống kê của Bộ Tài chính, số thu thuế tài nguyên ngoài dầu khí chỉ đạt 0,9% - 1,1% tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2011 – 2013. Ở một số địa phương như Phú Yên, số thu thuế tài nguyên từ khai thác khoáng sản chỉ đạt khoảng 4 – 5 tỷ đồng dù số lượng giấy phép còn hiệu lực lên đến 200 giấy phép. Số thu này không đủ bù đắp các chi phí quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản. Trong khi đó, các doanh nghiệp khoáng sản lại đánh giá mức thuế suất hiện nay đối với khai thác khoáng sản là khá cao so với thế giới.

    Khai khoáng là một trong những ngành có rủi ro thất thu ngân sách cao, chủ yếu do khai thác trái phép, xuất khẩu trái phép và quản lý thuế không hiệu quả. Ở Việt Nam, năm 2012, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã kiểm 957 giấy phép khoáng sản do địa phương cấp. Kết quả cho thấy 50% giấy phép được cấp không đúng với quy định pháp luật. Bên cạnh đó, tình trạng khai thác trái phép và xuất khẩu trái phép vẫn diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương. Ngoài ra, hiện nay chưa có cơ chế để giám sát hiệu quả sản lượng khai thác thực tế của doanh nghiệp, dẫn đến thất thu ngân sách nhà nước và thất thoát tài nguyên khoáng sản quốc gia.

    Thúc đẩy quản trị và tăng cường minh bạch

    Tham luận về “Khai thác khoáng sản ở Việt Nam: Thực trạng và nhu cầu cải cách”, Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Chuyên gia độc lập dẫn chứng: Thế giới hiện nay có nhiều sáng kiến nhằm hạn chế thất thu ngân sách và quản lý hiệu quả hơn tài nguyên khoáng sản. Trong đó, sáng kiến minh bạch công nghiệp khai thác (EITI) được coi là một trong những sáng kiến hiệu quả nhất. Theo đánh giá, Nigieria đã tránh thất thu được 1 tỷ Đô la Mỹ mỗi năm trong lĩnh vực khai khoáng nhờ thực hiện sáng kiến này. Tính đến thời điểm hiện tại, có 49 quốc gia đã thực thi EITI, trong đó có nhiều quốc gia phát triển như Anh, Mỹ và Na Uy.

    [​IMG]
    Do đó, Việt Nam trước hết phải nhận thức đúng về tài nguyên khoáng sản, qua đó có biện pháp thúc đẩy chế biến sâu nhằm giảm tổn thất và bảo vệ môi trường. Đồng thời phải khai thác và sử dụng tiết kiệm để đảm bảo cho nhu cầu lâu dài phát triển đất nước. Quản lý khoáng sản theo cơ chế thị trường bằng việc thay thế “giấy phép” bằng “hợp đồng”; thay “xin cho” bằng “đấu thầu”. Bên cạnh đó, phát triển khoa học và công nghệ trong tất cả các khâu khai thác, chế biến, sử dụng. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật chuyên sâu, đi đôi với hoàn thiện các công cụ pháp lý…

    Các đại biểu tham dự Hội thảo cũng đã nêu rõ, Việt Nam đã tiếp cận EITI từ năm 2006 và Bộ Công Thương được giao là cơ quan chủ trì xem xét thực thi sáng kiến này. Tuy vậy sau gần 10 năm xem xét, Việt Nam vẫn chưa cam kết thực thi EITI dù nhu cầu cần cải cách lĩnh vực khoáng sản hiện nay là rất lớn. Việc chậm cam kết EITI được cơ quan chủ trì lý giải là do những hạn chế về năng lực thực thi và mức độ đáp ứng về mặt chính sách.

    Nhưng theo rà soát đánh giá của nhóm chuyên gia độc lập, Việt Nam hiện nay hoàn toàn đáp ứng được việc thực thi EITI về cả năng lực và chính sách. Nên trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với nhiều áp lực cải cách trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần nhìn nhận lại EITI như một giải pháp tổng thể thúc đẩy cải cách lĩnh vực khoáng sản và nâng cao hiệu quả thu, nhằm góp phần giải quyết khó khăn về thu ngân sách và quản lý hiệu quả hơn nguồn tài nguyên không tái tạo của quốc gia.

    Văn Hào (TTXVN)​
     

Chia sẻ trang này